Tây Tiến đoạn 2

TÂY TIẾN 

—Đoạn 2—

Phân tích Tây Tiến đoạn 2: Nỗi nhớ về đêm liên hoan văn nghệ và cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc tĩnh lặng nên thơ.

“Doanh trại bừng lên hội đuốc, hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

 

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”

 Gợi ý phân tích

 1. Bốn câu đầu, nhà thơ mang đến cho người đọc không khí tươi vui của đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân. Không khí đêm hội ở đây mang dấu ấn của tâm hồn trẻ trung, lãng mạn yêu đời:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

– “Doanh trại” là nơi đóng quân của Tây Tiến cũng là nơi đang diễn ra đêm hội đậm đà tình quân dân. Từ “Bừng lên” trong “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” chỉ sự tưng bừng náo nhiệt của đêm hội. “Bừng” chỉ ánh sáng của “đuốc hoa”, của lửa trại, của không khí náo nhiệt, cũng còn có nghĩa là sự bừng lên của tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười nói tưng bừng rộn rã.

+ Từ “đuốc hoa” trong nghĩa Hán Việt có nghĩa là nến hoa chúc – biểu tượng cho hạnh phúc của uyên ương. Ở đây, Quang Dũng dùng chữ “đuốc hoa” mang  ý nghĩa ấm áp – gợi niềm vui, niềm hạnh phúc trong lòng các chiến sĩ trẻ.

– Từ “Kìa em” trong câu thơ thứ hai “Kìa em xiêm áo tự bao giờ” là từ cảm thán – thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người lính Hà Thành trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong trang phục “xiêm áo” lộng lẫy cùng dáng vẻ “e ấp” rất thiếu nữ. Cụm từ “tự bao giờ” bộc lộ cảm giác ngỡ ngàng, đắm say của những chàng lính trẻ.

– Tiếp đó là là tiếng “khèn man điệu” kết hợp với câu thơ toàn vần bằng “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ” tạo nên độ phiêu du, phiêu lãng chắp cánh cho tâm hồn những người lính thăng hoa, mọi cảm giác mỏi mệt, vất vả đều tan biến, những mất mát, gian khổ như bị đẩy lùi, thêm vào đó là lòng yêu đời, yêu miền đất lạ. Chính vì thế, niềm lạc quan yêu đời đã nâng bước họ mạnh mẽ hơn trên con đường hành quân phía trước.

2. Bốn câu sau là khung cảnh chia tay trên nền sông nước Tây Bắc hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi vị:

Ngư­ời đi Châu Mộc chiều s­ương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng ng­ười trên độc mộc

Trôi dòng n­ước lũ hoa đong đưa.

– Thời gian chia tay là buổi chiều, không gian chia tay là một không gian bảng lảng khói s­ương như­ trong cõi mộng. Nhưng sương ở đây không phải là “sương lấp”, sương che hay sương phủ mà là một không gian núi rừng  mơ màng trong sương khói. Có người cho rằng “Chiều sương ấy” là chiều sương trong cái nhìn hoài niệm nên tất cả mờ ảo. Chữ “ấy”  như đẩy “chiều sương” vào một miền ký ức thẳm sâu, vừa nhạt nhoà, vừa như thực như mộng.

– Câu hỏi tu từ “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” làm xao xuyến lòng người. Phép nhân hoá – “hồn lau” kết hợp cụm từ “nẻo bến bờ” gợi cảm giác mênh mông hoang vắng, tĩnh lặng, giàu chất thơ sâu lắng. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được vẻ đẹp nên thơ ấy. Ý thơ mang đến hai cách hiểu:

+ Buổi chia tay trong “chiều sương ấy” làm tâm trạng người đi như nhuốm lên cảnh vật, nhuốm lên “hồn lau”.

+ Cách hiểu thứ hai là: Cuộc đời người chiến binh gắn liền với hoa lau Tây Bắc. Nay “xa rồi” nên nỗi nhớ càng trở nên xao xác, bâng khuâng.

– Không gian nên thơ ấy làm nền cho ngư­ời thơ xuất hiện: “Có nhớ dáng người trên độc mộc’’. Điệp ngữ “có thấy – có nhớ” luyến láy như khắc chạm vào lòng người một nỗi nhớ da diết, cháy bỏng khôn nguôi. “Dáng người trên độc mộc” ở đây có thể hiểu là hình ảnh mềm mại, uyển chuyển của những cô gái vùng cao đang đưa các chiến sĩ vượt sông. Cũng có thể hiểu là dáng hình kiêu dũng của các chiến sĩ Tây Tiến đang chèo chống con thuyền vượt sông, vượt thác dữ tiến về phía trước.

– Câu thơ cuối sử dụng nghệ thuật đối lập: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đó là sự đối lập giữa cái dữ dội của thiên nhiên “Trôi dòng nước lũ” với cái mềm mại, dễ thương “hoa đong đưa” đã làm cho thiên nhiên hòa hợp cùng với xúc cảm của con người. Từ láy “đong đưa” được sử dụng rất gợi. Không phải cánh hoa rừng trôi nổi dập dềnh trên dòng nước lũ mà là “đong đưa” theo gió. Dáng hoa ấy hoà hợp với “dáng người trên độc mộc” làm nên một bức tiểu họa thật lãng mạn mà cũng thật hào hùng.

3. Tổng kết nghệ thuật: Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Bên cạnh đó còn có các yếu tố nghệ thuật: Nghệ thuật nhân hóa đầy sức gợi, phép điệp làm cho câu thơ luyến láy. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa.

Tóm lại, tám câu thơ của khổ hai đã vẽ nên khung cảnh thiên nhiên, con người miền Tây với vẻ đẹp mĩ lệ, thơ mộng, trữ tình. Chất nhạc, chất hoạ, chất mơ mộng hoà quyện chặt chẽ với nhau trong đoạn thơ tạo nên một thế giới của cái đẹp .Từng nét vẽ của Quang Dũng đều mềm mại, tinh tế, uyển chuyển. Đây là đoạn thơ bộc lộ rõ nhất sự tài hoa, lãng mạn của Quang Dũng trong tổng thể bài thơ.

Thầy Phan Danh Hiếu

GV Luyện Thi Ngữ Văn Quốc Gia

Bình luận